Chương I
Buổi sáng đầu xuân quang đẹp. Mặt trời lên cao tỏa ánh nắng vàng tươi ấm dịu làm tưng bừng hẳn bầu không khí sớm mai. Gió hiu hiu nhẹ nhàng từ bên phía Bát Tràng thổi lướt qua sông Cái vào ven đê rung rinh phe phẩy những bụi cây, cành lá bên đường. Những con chim nhỏ bay liệng tắm nắng và lách chách, ríu rít nhảy chuyền qua từng cành, từng bụi cây. Và mải mê với nắng và mồi, chúng rất dạn người, thường đưa mắt ranh mãnh nhìn khách qua đường.
Nhưng khách đi đường phần nhiều ở dưới thuyền mới lên bộ, đều vội vã đi ngay, không ai để ý gì đến cảnh vật chung quanh, nên cũng chẳng ai vạ gì hoài hơi đi khua quấy đàn chim nhỏ đang nô giỡn hát vui với ánh mặt trời. Chỉ có người, áng chừng một văn nhân mơ mộng cũng đi từ dưới bãi lên đê, nhưng hễ thấy con chim nào bất kể là chim sẻ hay chim vành khuyên, chào mào hay sáo, con nào cũng tỏ ra bạo dạn, cứ giương mắt ra nhìn có vẻ chế giễu, là ông ta xô đến đuổi ngay làm cho những con chim ấy cuống cuồng bay đi, vừa bay vừa hót như có ý nguyền rủa.
− Chết! Chết tiệt!
Nghe hay hay, người khách bật cười tự nhủ:
− Mày rủa ông chết à? Đầu năm xuân mới mà mày độc địa thế à? Rồi mải đuổi theo ý nghĩ đang nung nấu trong lòng: “Chúng mày sống vui vẻ nhởn nhơ, dễ ông không được sống vui vẻ nhởn nhơ à? Vô lý! Ai cũng có quyền tìm được cách sống sung sướng, chúng mày không được nguyền rủa ông chết! Chúng mày sẽ phải chết trước! Nghe không?”.
Khoái chí vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy, ông vừa đi vừa nhặt những hòn đất rắn, gạch vụn ở đường, vừa ném đuổi những con chim nhảy nhót trên cành hay ở vệ đường làm cho những người qua lại cũng phải phì cười về cái tính lẩn thẩn ấy. Nhưng không phải ông lẩn thẩn đâu. Ông nghĩ thế thật, và ông cứ nhẩn nha như thế đi lên phía Đồn Thủy, định nhân buổi trời xuân trong đẹp này, (vả lại là buổi rỗi rãi không ai biết đến mình) để xem quang cảnh nơi nhượng địa kia thế nào? Mười lần tai nghe không bằng một lần mắt thấy, ta thử đi qua một lượt mục kích xem sao! Dòng suy nghĩ đi xa, ông không ném chim nữa, và cũng đã đến nơi rồi: kìa dưới sông, trên làn nước đỏ sẫm gạch cua chảy xiết, hơn chục cái thuyền ván, cột buồm sừng sững, trên ngọn mỗi cột một lá cờ ba sắc trắng, đỏ, xanh thẫm phần phật bay theo chiều gió, như cố nhoai cho thành một hàng dài. Bên ngoài dãy thuyền là ba cái tàu lớn hai tầng sơn trắng, ống khói tròn như cái cót lúa ở giữa nóc tàu đang từ từ bốc lên một làn khói mỏng. Ở phía mũi tàu quay ra giữa sông một lá cờ ba sắc lớn hơn một cái chiếu đang phất phơ trước gió, trông có vẻ như cờ lệnh của viên tướng chỉ huy, chỉ huy cả đoàn thuyền. Các thuyền đều im lặng tắm trong nắng sớm. Riêng trên những tàu là náo nhiệt những binh lính đi lại, lên xuống, xì xồ và hát nghêu ngao như bò rống. Tiếng hát vọng lên đến trên bờ, thì ở trên này cũng có tiếng xì xồ hát đáp lại cũng như bò rống, hổ gầm, ông khách bật lên tiếng cười chế nhạo, tự nghĩ:
− Thế mà cũng hát với hỏng.
Nhưng ông ngừng ngay vì chợt trông thấy ở trên bãi, bên trong hàng rào tre, rào cánh sẻ có tiếng hô nhịp “ắc đê,… ắc đê”1 và nhìn thấy từng hàng đội binh lính bước đi đều đặn. Nhìn theo đoàn người nhịp nhàng tiến bước, ông đưa mắt nhìn bao quát cả cái khu nhượng địa mới xây dựng này. Ồ! Cái nơi đất bãi bồi ngoài bến Tây Luông mà mấy năm trước mình đã qua đây chỉ thấy cát và bùn, thì bây giờ đã thành một khu dinh cơ bát ngát và nguy nga: một nhà gạch hai tầng ở giữa cao vượt lên trên hàng cây, từng ô cửa chữ nhật sơn xanh đóng khung lên những
bức tường vàng, chung quanh là những dãy nhà ngang dọc, cũng mái ngói tường gạch, cửa xanh trên nền tường vàng… Và bên ngoài nữa, gần sát với đê La Thành, bức tường thấp bên trên cắm rào sắt và rào gỗ cũng sơn xanh, trông thẳng tắp. Tất cả cái khung cảnh xinh xắn, diêm dúa, mới mẻ ấy nối tiếp ngay với đoàn tàu thuyền kia nổi bật lên thành một khu cảnh trí riêng biệt, như một thế giới khác ở bên sông Hồng, sát nách cái thành trì cổ lỗ. Thì ra người Tây họ văn minh hơn mình thật, họ gọn gàng, ngăn nắp, và nhất là cũng đất ấy lại là khu đất ngoài bờ sông dễ lở, cũng những vật liệu ấy, mà họ khéo xây đắp lên một nơi như tiểu thần tiên vậy, không đồ sộ lộng lẫy, nhưng mà đẹp, đẹp hơn cả dinh quan Tổng đốc trong thành. Họ giỏi hơn mình thật, đi đến đâu là họ lập thành cơ ngũ vững vàng hẳn hoi! Ô kìa! Mà sao đến buôn bán mà lại chả thấy hàng hóa gì mấy, mà lại toàn là binh lính và súng ống tập tành thế này? Ông khách gật gù tự đáp, tự cho như là một sự khám phá mới lạ:
− Binh dĩ vệ thương, thương dĩ dưỡng binh2.
Đúng rồi! Phải có sức mạnh mới buôn bán được! Làm gì cũng vậy, cũng cần phải có sức mạnh, có quyền, có thế! Mà đây họ lập cơ ngơi cố thổ thế này, lại tập tành rèn luyện thế kia là họ định tạo đủ sức mạnh ở mãi đây đây!
Tự nhiên ông nghĩ đến nước mình, đến dân mình rồi đến bản thân mình, ông nghĩ đến tấm thân nam nhi ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa thành dân phận gì, nào có phải kém cỏi gì cho cam, cũng có học có tài như ai, rốt cục cũng chỉ vì chưa có thế, chưa có sức mạnh mà thôi. Ông vừa nghĩ về bản thân mình vừa đi sát vào hàng rào xem bọn lính Tây tập. Ông mải mê đi, cứ lững thững đến gần cổng chính mà không biết. Bên trong cổng, một anh lính Tây đã chú ý đến ông từ trước nhất là chú ý đến cái khăn gói đỏ khoác trên vai và cái nón lông đen chóp bạc sáng nhoáng phản ánh tia nắng mặt trời ở trên đầu ông. Hắn để cho ông lại gần, liền chạy xô ra, đứng ngăn trước mặt ông và hỏi bập bẹ bằng giọng Sài Gòn:
− Cái chi?… Cái chi?…
Ông khách hoảng sợ toan ù té chạy, nhưng không kịp nữa, tên lính đã chộp lấy vai ông, rồi một tay nắm chặt tay ông, một tay gỡ cái nón chóp đội lên đầu mình và tháo khăn gói khoác lên vai. Đoạn hắn buông ông ra cười hề hề đi ngoắt trở vào trong cổng. Ông cố chạy theo vào định níu áo hắn lại và đòi:
− Trả nón gói tôi đây! Trả tôi đây!
Tên kia vẫn cười hề hề rảo bước, tên lính đứng canh ở vọng canh bên trong cổng vác súng và lưỡi lê cản ông ra. Thất kinh vì những đồ binh khí sáng loáng ấy ông đứng ra bên ngoài cổng chắp tay vái lấy vái để, xin lại hành lý. Tên lính canh không hiểu tiếng nói, cứ xua tay lắc đầu từ chối. Vẫn điệu bộ ấy đối đáp với nhau mãi. Một người đàn bà gánh rau lên phố bán đi qua trông thấy vậy liền bảo:
− Bác hỏi cái gì vào chỗ nhà “đoan” kia kìa, nhờ người ta nói hộ, ở trong ấy có thông ngôn đấy.
Ông khách vội chạy theo bà hàng rau, và theo tay bà ta chỉ, đi vào cái nhà gỗ lợp tranh liền ngay đấy. Ở đây có đông người ra vào. Ông chạy thẳng đến gần người đang ngồi biên chép ngay cửa vào và nói nhờ giúp hộ. Người ấy ngẩng lên nhìn và hỏi:
− Anh buôn gì?
Ông nói lại rõ sự việc xảy ra và nhờ người ra nói giúp xin hộ nón và khăn gói. Người kia thản nhiên nói:
− Anh lại ô Hàng Cau nhờ ông Cử xem.
Ông cứ nằn nì nhờ xin hộ, và cố phân trần rằng chỉ cần biết được tiếng họ là lấy lại được nón, gói thôi. Người kia lạnh lùng nói:
− Đây chỉ có việc tính thuế và khai hàng xuất nhập thôi, anh xê ra cho người ta làm việc.
Ông càng thêm chán ngán đứng tần ngần nhìn lên cái biển gỗ sơn then có hàng chữ vàng “Đại Phú quốc thương chính tòa” viết rất chân phương đĩnh đạc, ông càng thêm bực tức, nghĩ bụng “Thì ra nơi nha môn nào cũng vậy mà thôi, ở đâu cũng thế cả”. Ông lẩm bẩm nói lên thànhtiếng như có ý nguyền rủa:
− Tệ thật, hễ là thương chính thì chỉ làm việc buôn bán thôi ư! Không giúp đỡ ai được việc gì nữa à? Một người đàn ông chít khăn đầu rìu mặc áo cộc nâu năm thân cài dải đang đứng đợi ở đấy nghe thấy vậy nói ngay:
− Ông muốn hỏi gì cứ ra cửa hiệu Lạc Phố mà nhờ ông Cử.
Người ấy ghé vào tai ông, nói thấp giọng:
… Mọi việc ở đây, họ xua ra đấy cả. Họ ăn cánh với nhau mà. Đứng đây cũng vô ích!
− Thôi đành cũng phải ra đấy vậy. Vốn đã nghe danh đồn đại nhiều về lão Cử này, nay lại phải tự phơi mặt ra với lão, nhờ vả lão, thì xấu hổ chết! Mà lại nhục nữa! Chẳng gì thì cũng là một vị quan của triều đình! Nhưng được cái lão ta chưa biết mặt mình, thì cứ giấu nhận là anh đồ Nghệ nào đó mà chả được, miễn là xong việc thì thôi. Nghĩ vậy, ông khách quả quyết đi thẳng lên phía cửa ô trên, tìm vào cửa hiệu của ông Cử em. Đây đúng là một cửa hiệu buôn. Trước kia, còn ở trên ô Hàng Mắm, hiệu Giai Huynh của ông Cử chỉ là một gian nhà dùng làm nơi để ngồi viết giúp giấy tờ giao dịch với sở Thương chính của ta và sở Thương chính của nước Phú Lãng Sa, mà người ta quen gọi là “nhà đoan”. Nhưng từ năm ngoái, dọn xuống nhà mới ở cửa ô dưới này cho gần với nhà đoan, mở mang rộng thêm, lại bày bán thêm một số hàng ngoại quý giá của Tây và Khách, trông choáng lóe cả mắt. Và tên hiệu cũng được đổi là Lạc Phố cho hợp nghĩa hơn. Ông khách xứ Nghệ đến đúng vào lúc cửa hiệu đang đông khách. Trong năm gian nhà rộng rãi, chỗ nào cũng lố nhố có người. Thường thường nhiều nhất là những người vào xem hàng, cũng có những người vào mua hàng, vào nhờ viết giúp giấy tờ, công việc, có những bạn quen thân đến chơi, bàn chuyện thời thế gần xa. Ông khách mới đến tiến lại gần một người bán hàng, chào hỏi và nói muốn gặp ông chủ. Người bán hàng chỉ vào một ông quần áo chỉnh tề chít khăn lượt chữ nhân ngồi ở đằng sau cái án thư bên trong quầy hàng ở góc nhà đằng kia.
Khách còn lóng ngóng chưa biết đi lối nào, thì ông chủ ở bên trong án thư đã trông thấy vội đứng lên chạy ra, chắp tay vái chào và mời tíu tít:
− Bẩm quan lớn ạ! Xin rước quan lớn vào chơi. Mời quan lớn đi lối này ạ.
Khách sững sờ đứng dừng lại ông kia đã chạy ra hẳn tận nơi, chắp tay vái chào lượt nữa rất lễ phép, rồi niềm nở mời khách và đi trước dẫn khách vào, mời ngồi lên cái trường kỷ gỗ gụ đen bóng nhoáng có chấn song con tiện, kê ở gian giữa. Khách chợt nghĩ ra: “Thôi chết! Tú tài Nam Phố! Mình không nhớ ra. Thôi lộ rồi!”. Ông vội tìm cách ứng biến để che đậy ý định thầm kín của mình, liền hỏi:
– Thầy Tú cũng ở đây à? Thầy Tú ạ tôi muốn vào… vào chơi hầu quan phủ Đào… không biết thầy ở đây…
Ông kia đỡ lời ngay:
− Vâng, vâng ạ. Bẩm xin rước quan lớn ngồi chơi. Ông Cử chúng tôi ở nhà trong, chúng tôi xin đi vào mời ra hầu quan lớn ngay ạ.
Khách đã tự trấn tĩnh lại được, ung dung ngồi vào trường kỷ, hỏi:
− Còn nhà trong nữa cơ à? Hiệu của các quan to nhỉ.
− Dạ, bẩm dọn xuống đây có đất mở to. Vả lại nhà ngoài này bày hàng họ, có đông khách ra vào, cũng phải có cái nhà trong cho nó tĩnh, có chỗ nghỉ ngơi.
Ông Tú còn đương đứng nói, thì cánh cửa bên từ nhà trong ra kẹt mở, một người đã đứng tuổi mặc áo nhiễu kép đỏ, quần lụa trắng, chít khăn nhiễu tím, rồi ở trong bước ra, ông Tú vội nói với khách:
− Bẩm quan lớn, ông Cử tôi đã ra đấy ạ. Rồi quay lại ông Tú giới thiệu với Đào Trọng Kỳ:
− Thưa bác, có quan Giáo thụ phủ nhà đến chơi!
Đào Trọng Kỳ vội chắp tay vái chào và đi nhanh đến trường kỷ, ấn mời khách ngồi xuống, trong khi ông này đứng dậy vái chào. Kỳ vồn vã nói:
− Hân hạnh cho hạ dân quá. Nghe danh quan lớn đã lâu, vẫn khao khát muốn đến bái yết tôn nhan, nhưng bận những việc tầm thường chưa có dịp nào thỏa lòng mong ước. Xin rước quan lớn ngồi.
Khách ngồi xuống ghế, lễ phép nói:
− Bẩm quan lớn, từ khi tôi về nhận giáo chức phủ Hoài Đức này đã hơn một năm, vẫn nghe tiếng quan lớn ở đây quảng giao hiếu khách, nhưng chưa có dịp may nào để đến hầu tiếp, định tết này về quê ra, thể nào cũng sẽ vào hầu quan lớn.
Đào Trọng Kỳ vội ngắt:
− Bẩm quan lớn, xin quan lớn tha thứ cho, xá cho lỗi gọi nhau như thế, vì hạ dân đây là kẻ có tội, bây giờ làm cái mạt nghệ này.
Khách cũng cướp lời:
− Quan lớn nghĩ thế là sai. Đành rằng có tội, nhưng quan lớn có tội với triều đình. Chứ còn quan lớn đã đỗ Cử nhân trước bản chức, làm quan đến Tri phủ, trong khi giao du với nhau, vẫn phải xưng hô như thế mới phải.
Ông Tú đứng bên nói xen vào:
− Hai quan nói đều phải cả, nhưng đệ thiết nghĩ trong làng danh giáo, con cháu đạo thánh cả, ta nên gọi thông thường cho nó thân mật hơn.
Ông Giáo thụ phủ Hoài vội nói ngay:
− Thầy Tú dạy đúng. Nói kiểu cách quá lại hóa ra khách sáo.
Rồi ông nói tiếp, thấp giọng hơn và với vẻ chân thành:
– Đệ định bụng ở quê ra, sẽ vào chơi mừng tuổi quan anh, mà không may, trong bụng lấy làm xấu hổ, lại hóa ra là phải thân đến đây nhờ quan anh giúp việc. Thật là đường đột.
Đào Trọng Kỳ đang bày ngay ngắn lại những khẩu giầu ở trên đĩa cổ cho giầu cau ngay ngắn, cũng lấy làm lạ, hỏi:
− Thưa quan lớn có việc gì kia ạ?
Khách kể lại việc đi qua khu nhượng địa, bị mất nón chóp và khăn gói. Ông Tú chưa nghe hết đầu đuôi, nói ngay:
− Tây nó đùa đấy! Sao quan lớn không chạy theo vào mà đòi, là nó phải trả. Nó thấy người mình hiền nó hay trêu!
Ông Giáo thụ đáp:
− Tôi có chạy theo vào xin, nhưng tên lính canh cổng đẩy tôi ra. Tôi chạy đến tòa Thương chính nhờ hỏi hộ, người ta chỉ cho tôi ra đây… nhờ…
Đào Trọng Kỳ nghiêm trang hỏi:
− Hay là quan lớn có làm gì chúng nó?… Hoặc giả làm cho chúng nó ngờ…?
− Bẩm không ạ, đệ chỉ thấy cái mũ trắng úp sùm sụp như cái lon giã cua ở trên đầu và đôi chân quấn vải chặt như cây gỗ, nên đệ đứng ngây ra mà nhìn…
Phủ Kỳ bỗng phá lên cười oang oang, vỗ tay vào đùi, nói:
− Thôi phải rồi! Phải rồi! Nó lạ cái nón lòng chóp bạc của quan lớn, và cả cái khăn gói nữa, khăn gói vải đỏ chứ gì,… Đúng, nó cũng lạ như quan lớn lạ cái mũ của nó ấy mà, nên nó muốn giữ lấy nó xem. Nó đùa đấy quan lớn ạ.
Người nhà bưng khay chén và nước sôi ra, ông Tú pha chè rót nước đặt lên bàn. Ông Phủ Kỳ đặt một chén nước trước mặt khách và nói:
− Rước quan lớn xơi nước. Mời quan lớn cứ ngồi đây chơi, để tôi nhờ người hỏi hộ. Nó đùa thì nó trả, không ngại.
Ông khách phủ Hoài nói khẩn khoản:
− Vì ngôn ngữ bất đồng, nên đệ phải vào đây nhờ quan anh hỏi hộ, để đệ còn xin phép quan anh phải vào trình quan Đốc học cho kịp lễ khai giảng đầu xuân ngày kia.
− Vâng, rước quan lớn cứ ngồi chơi nói chuyện, chúng tôi sẽ cho người đi hỏi ngay…
Vừa lúc đó ở bên ngoài có tiếng người hỏi vọng vào:
Ông Cử có nhà không?
Đào Trọng Kỳ trông ra vội đứng lên chạy ra reo:
A ha! May quá là may, vừa đúng dịp. Xin mời hai ngài vào!
Ông Giáo thụ Hoài Đức, ông tú Nam Phố cùng đứng dậy đi ra giữa nhà đón chào. Hai người khách mới đến vừa lên tiếng hỏi ở ngoài cửa đã bước vào trong nhà. Hai người ăn mặc giống nhau, cũng áo kép dài vải thâm tay chẽn, quần lụa trắng rộng phủ lên đôi giầy da đen kiểu Tây bọc lấy chân, đi gót kêu cộp cộp. Cũng cái mũ vải cứng vành to trên đầu, cũng một cái cổ trắng cao cứng bên trong cổ áo kép; tuy hai người mặc áo dài ngắn khác nhau và có giọng nói khác nhau, nhưng riêng lối quần áo, giầy mũ như thế cũng đủ tỏ cho mọi người biết họ là hạng người thế nào, từ đâu đến. Cho nên ông Giáo thụ, tuy là khách mới đến, cũng rất vui mừng như ông Cử vậy. Hai người vào đến giữa nhà, người thấp bé nói giọng Nam kỳ, đứng sững lại hỏi:
− Nhà có khách lạ à?… Có bận? Chúng tôi xin ra.
Đào Trọng Kỳ vội giới thiệu:
− Bẩm không ạ. Xin mời hai ngài vào chơi. Trình hai ngài đây là quan Giáo thụ phủ Hoài Đức chúng tôi, cũng là bạn thanh khí nhà nho cả…
Ông quay liếc nhìn ông giáo và nói tiếp:
− … Và cũng đang có tí việc muốn nhờ các ngài, thật may quá, vừa dịp…
Rồi ông quay hẳn lại nói với ông giáo, xòe bàn tay ra, cúi đầu chỉ vào người thấp bé nói giọng
Nam kỳ:
− … Trình quan lớn, đây là quan thông ngôn Lộc người Gia Định Sài Gòn, hàm Tri huyện hạng nhất, thông ngôn đầu tòa ngoại hạng trong dinh quan Công sứ Kê-la-đích ở khu trường Tây Đồn Thủy này…
Và cúi đầu xòe tay chỉ sang người cao hơn, ông giới thiệu tiếp:
− … Còn đây là quan Giáo sư Lê, người Bắc, giỏi chữ La-tinh, chữ Ăng-lê, dạy ở trường cố bên Ma Cao, về đây là khách của cụ Kê…
Ông thông ngôn người Nam kỳ cúi đầu chào và nói:
− Đã là quan Giáo dạy học, thì là bạn nhau cả, là cùng nghề, là đồng nghiệp, tôi cũng đã dạy học, còn quan Giáo sư Lê là giáo chức cao đẳng, dạy những người ra đi dạy các ông giáo. Ngài biết giỏi nhiều thứ chữ, cũng như quan Đốc học Trương Vĩnh Ký vậy… Chắc ngài cũng nghe nói đến quan Đốc Trương?
− Dạ bẩm thưa hai ngài, có ạ!
Ông Giáo thụ mới trả lời được thế, ông thông ngôn đã nói tiếp ngay:
Bồng! Tốt. Chúng tôi rất lấy làm sung sướng được gặp một bạn đồng nghiệp… À mà bạn, à quên, quan lớn, xin quan lớn thứ lỗi, chúng tôi quen nói theo lối người Phú Lãng Sa, thưa quan lớn có việc gì muốn sai bảo chúng tôi?
Ông giáo luống cuống chỉ biết chắp tay cúi đầu, nói nhỏ nhẻ không rõ tiếng, ông Cử vội nói đỡ:
− Dạ, xin mời hai ngài ngồi chơi đã, mời quan Giáo ngồi chơi ta sẽ nói chuyện.
Khi mọi người đã ngồi cả vào trường kỷ, hai bên đối diện nhau, Đào Trọng Kỳ mới thuật lại việc ông giáo bị mất nón và khăn gói cho tên thông ngôn nghe. Tên này đứng phắt ngay lên, chìa tay ra nắm lấy tay ông Giáo thụ lôi đứng dậy và nói:
− Tây nó thấy quan lớn ngài hiền, nó đùa đấy. Nhưng cũng là đùa nhả, bọn này phải phạt “cỏ-vê”3 mới được. Đi, ngài đi với tôi để bắt chúng nó phải xin lỗi ngài…Quay sang nói với Giáo sư Lê, hắn nói:
− Bác ngồi đợi tôi đây nhé. Tôi ra ngay.
Ra khỏi trường kỷ đến giữa nhà, hắn chỉ cái bàn cờ để trên quầy hàng dặn với lại:
Ông Cử và ông Tú đem bàn cờ này vào đấu với Giáo sư Lê mấy ván đợi chúng tôi về. Đào Trọng Kỳ cũng xun xoe chạy ra cửa nói thêm:
Trăm sự trông nhờ ở ngài cả.
Tên thông ngôn Lộc vội nói:
Dạ, đó là phận sự của tôi phải làm chứ!
Và hắn vội dừng lại:
À này quý quán cao danh của quan Giáo thế nào nhỉ? Tôi phải biết để nhờ Tây nó hỏi…
Ông Giáo thụ phải nói ngay:
− Tôi quê ở Hà Tĩnh, tên là Hoàng Văn Khải, hiện làm Giáo thụ ở phủ Hoài Đức này.
Được rồi, thế ta đi. Tôi nhớ rồi, quan lớn tên là Hoàng Văn Khải. Xin quan lớn bỏ quá cho, cái nghề của tôi nó phải thế.
Hai người liền thoăn thoắt bước xuôi phía Đồn Thủy vừa đi vừa nói chuyện, trông đã có vẻ như đôi bạn thân.
Một hồi lâu sau, hai người trở về nét mặt đều tươi tỉnh phấn khởi. Ở đằng hiệu này, Đào Trọng Kỳ với Giáo sư Lê đang mải mê suy nghĩ, cân nhắc những nước đi, ông Tú ngồi chầu rìa bên Giáo sư Lê, thỉnh thoảng cũng góp ý mách nước. Ba người đang chụm đầu vào bàn cờ, thông ngôn Lộc sồng sộc ở ngoài vào bô bô hỏi:
− Mấy ván rồi? Có lâu không?
Đào Trọng Kỳ ngẩng lên trước nói:
Chưa được một ván… Thế nào? Xong rồi à? Nhanh thế, có sao không?
Thông ngôn Lộc hỏi lại:
− Chưa được một ván cơ à? Sao lâu thế? Thôi hòa nhá. Cánh này đi tốt lắm. Lấy được cả nón gói về đây, mà Tây nó phải xin lỗi.
Ông Tú nói:
− Thế thì hay! Ta phải ăn mừng.
Giáo sư Lê nói:
− Hòa cũng được. Nhưng chưa hạ được ông Cử, chưa hả.
Thôi để lúc khác hẵng hay!
− Thông Lộc vừa nói vừa lấy tay xoa quân cờ đi, và nói mấy câu tiếng Tây với Giáo sư Lê, rồi hắn quay ra mời ông Giáo, ông Tú cũng cùng ngồi vào trường kỷ, và kể lại chuyện hai người đi vào khu nhượng địa như thế nào. Sau khi biết rõ cái việc đáng tiếc này, quan ba cập-ten4 coi đội quân ở đấy đã mời quan Giáo thụ vào trong phòng khách, mời quan Giáo uống rượu vang, ăn bánh ngọt, trò chuyện hỏi thăm thân mật rồi bắt tên lính kia phải đem nón và khăn gói vào nộp trả quan Giáo và xin lỗi ngài. Quan ba cũng chân thành xin lỗi ngài về việc đáng tiếc ấy đã xảy ra.
Thông Lộc cầm cái nón chóp bạc giơ lên và nói tiếp:
− … Và đây là cái nón của quan lớn, lông chim lợn đã đẹp, nhưng đẹp nhất là cái chóp bạc chạm trổ tinh vi này, nó đã làm cho tên lính say mê đùa nghịch mà bị lỗi, làm mất thể diện của người Phú, đáng lẽ bị phạt nặng lắm. Chúng tôi phải xin mãi, quan cập-ten mới tha phạt “công-sinh”5 chỉ phạt “cỏ-vê” qua loa thôi…
Đào Trọng Kỳ mỉm cười, nhìn hỏi sang ông Giáo phủ Hoài:
− Thế nào quan Giáo? Xong xuôi êm ấm rồi chứ?
Giáo thụ Hoài Đức đáp:
− Bẩm xong cả rồi ạ. Nón, gói, quần áo, sách vở còn nguyên, không suy suyển. Kể ra người Tây cũng lịch thiệp thật. Chỉ vì ngôn ngữ bất đồng mà sinh không hiểu nhau, chứ hai bên cùng hiểu biết nhau thì làm gì có chuyện xung đột. Ấy nhờ có quan lớn đây thông ngôn cho, Tây họ hiểu ra, họ cứ nắm lấy tay xin lỗi mãi, lúc ra về ông quan ba, ông ấy còn tiễn chân ra mãi đến cổng, và miệng cứ nói tốt tốt…
Rồi ông đứng lên nói với vẻ thành khẩn:
− Thật là may mắn cho đệ, trước hết là được nhờ ơn hai ngài biết tiếng nói giúp, sau là vì cây dây cuốn, nhờ có quan Phủ và ông Tú vun vào cho, đệ được lấy lại đủ nón gói để kịp giờ vào hầu quan Đốc, đệ xin ghi lòng cảm tạ. Giờ xin phép các vị cho đệ được lui về lo liệu.
Phủ Kỳ đứng lên và ba người kia cũng đứng lên theo. Kỳ nói:
− Không được, quan lớn ạ! Nhất kiến như cựu 6, huống chi lại là mộ danh nhau đã lâu; hai nữa lại mấy khi được gặp hai quan bên tòa Lãnh sự nước Phú Lãng Sa như thế này. Xin quan cứ lưu ở lại chơi với chúng tôi, đến chiều hãy vào dinh học chính cũng chẳng sao.
Ông tú Nam Phố cũng nói:
− Xin mời các vị cứ ngồi xuống cả đã. Tiểu đệ xin thưa thế này ạ: Quan Giáo đến chơi với chúng tôi là một sự vui, quan Giáo lấy lại được nón khăn gói là hai sự vui, lại có cả quan bên tòa Lãnh sự hạnh ngộ thế này là ba sự vui. Chúng tôi xin làm một bữa rượu nhạt cùng họp mặt với các vị để mừng ba sự vui ấy, và cũng là để mừng cái ý nghĩa nó biểu hiện đúng với cái tên “Lạc Phố” của chúng tôi: Lạc Phố chả là bến vui mà!
Đào Trọng Kỳ cũng vui vẻ tiếp lời:
− Quan Giáo ạ, cái lệ ở đây như thế đấy. Chúng tôi làm cái nghề ngọt này chỉ cốt mong được giao du cho rộng mà thôi. Trước kia ở cửa ô Ưu Nghĩa cũng vậy. Bốn bể đều là anh em cả.
Chuyển xuống đây cái ý đấy lại càng rõ ràng hơn. Huống chi hôm nay, hân hạnh có quan thông ngôn người trong lục tỉnh, quan Giáo người trong Nghệ Tĩnh, quan Giáo sư gốc gác đâu miền Thanh Hóa, Ninh Bình, ông Tú đây chính quê phố phường Hà Nội, còn ngu đệ thì chính quán ở tỉnh Đông, như thế rõ là bốn bề Bắc Trung Nam xum họp một nhà, chả là điều đáng vui lắm, cho anh em chúng tôi ư! Hẹn chả tầy gặp, mời các quan cứ ở chơi đây đã, bất cứ việc gì cũng xin để lại đến chiều. Chiều quan Giáo sẽ vào hầu quan Đốc. Thế mới là duyên may của cửa hiệu Lạc Phố chúng tôi.
Rồi ông đứng lên quay lại bảo ông Tú:
− Chú Tú đi bảo chúng nó làm cơm rượu thết khách, để tôi ở ngoài giầu nước hầu các quan.
Và quay sang hỏi quan Giáo thụ:
− Quan lớn có thích đánh cờ, mời quan đến với quan Giáo sư Lê, ngài đang cay hạ ngu đệ mà chưa được.
Thông ngôn Lộc đế vào:
− Hay đấy, hai quan Giáo, Giáo sư và Giáo thụ, đồng nghiệp đấu nhau cùng tri thức tâm tư “học nhi bất yếm, hối nhi bất quyện”7, thì chọi nhau mới cân tài, cân sức, hay đấy, tôi và ông Cử, chúng tôi xin làm chầu rìa, hầu điếu đóm, có phải không ông Cử?
Đào Trọng Kỳ quay hỏi vị Giáo sư Lê:
− Bẩm quan Giáo sư Lê nghĩ thế nào?
Ông này cười đáp:
− Tôi rất làm sung sướng được thừa tiếp các vị, hầu chuyện các vị là chính, còn việc đánh cờ chỉ là thứ. Tôi nói chân thật như vậy, quan Giáo mà có muốn chơi cờ với tôi, thì tôi cũng xin tuân lệnh chủ nhân ở đây.
Quan Giáo thụ lễ phép nói:
− Quan Giáo sư có rộng phép thì hạ chức may ra cũng xin đi hầu được mấy nước… Nhưng…(quay sang nhìn ông Cử, ông hỏi tiếp) trước khi vào dự cuộc vui, hạ chức muốn chủ nhân cho hiểu rõ thêm về cái tên Lạc Phố, có phải là “bến vui” như ông Tú nói không?
Đào Trọng Kỳ cười đáp:
− Dạ, bẩm có phần đúng như thế, mà cũng có phần khác. Nó là bến vui, vui vì ở đây là bờ sông, ngay ngoài bến, cửa ô mà luôn luôn có người vào ra đông vui thế này, lại có thêm những khách tâm giao tri kỷ, nên hiển hiện ra bên ngoài cũng đúng là bến vui. Nhưng về nguồn gốc chữ thì nó còn có một nghĩa khác nữa, kín đáo hơn. Đó là: Lạc tức là lạc địa, trong câu “danh giáo tự hữu lạc địa” về danh, tự khắc có đất vui riêng, ta tự có riêng đất vui của ta; Phố là làng Nam Phố, bến Hàng Bè cũ đây, chỗ này là đất của ông Tú và của cậu cả con quan tuần Lương Chính là dân làng Nam Phố. Vậy có nghĩa là đất vui của ta trên làng Nam Phố này chứ chả phải ở đâu ra cả.
Thông ngôn Lộc nói:
− Thế là quan lớn ẩn giữa thành thị trên bến dưới thuyền chứ cứ gì mà phải ở lâm tuyền mới là ẩn.
Đào Trọng Kỳ nói ngay:
− Ấy cũng vì thế, nên hễ gặp được bạn là vui ngay, chứ nếu ở lâm tuyền, thì gặp nhau được gặp là khó. Cho nên Lạc Phố ở đây, vẫn cứ là vui. Nào giờ thì đệ xin bầy quân cờ để hai quan Giáo xuất trận chơi vui. Lão bưng bàn cờ đặt lên bàn nước, giữa hai ghế trường kỷ rồi lại ngồi xuống bày quân cờ ra bàn. Thông ngôn Lộc ngồi vào trường kỷ bên kia, cũng bày quân cờ phía bên ấy, xong rồi nói:
− Nào mời hai ngài ra tay! Cần sai bảo gì thì đàn em xin phụng mạng ạ!
Cả bốn người đều cười vui vẻ. Giáo thụ Hoàng Văn Khải nhường Giáo sư Lê đi trước, nhường nhau mãi, Giáo sư Lê mới chịu đi nước đầu tiên. Rồi kế tiếp nhau mỗi bên đi đã được mấy nước, bên phía Hoàng Văn Khải, xe, pháo, mã đã xuất trận cả, mã đã nhảy sang sông, xe đã nghiến tốt đầu cản bước. Hai người chầu rìa cũng đang chăm chú suy nghĩ theo dõi nước cờ. Giáo sư Lê mải mê chống đỡ những nước cờ tấn công nhanh như gió táp, giờ mới nhận rõ lối đánh của đối phương, gật gù khen:
− Ngài Giáo thụ quả là có tài cầm quân dẹp loạn, đáng lương đống chi tài8. Nhưng mà khả dĩ công vị tất khả dĩ thủ, vì ngài đánh như thế có thể phải thí xe, thí pháo, thí mã, mà lúc ấy đối thủ họ còn giữ được toàn quân thì họ có thể quật lại cũng hăng đấy. Tôi thì khác, tôi chỉ cố thủ thôi, cho nên tôi đánh hơi lâu… Và tôi…
Tự nhiên hắn cao hứng ngâm to lên:
Đời chiến quốc có anh tài
Hoàng giang một dải chia đôi sơn hà
Tướng thần sỹ tốt vào ra
Bốn phương hợp lại một nhà mới thôi!
… Đấy là bài thơ vịnh đánh cờ của tôi, và đó cũng là lòng mong mỏi của tôi, sao cho bốn phương hợp lại một nhà mới thôi! Vì thế lối của tôi chỉ là dàn quân bảo vệ:
Đào Trọng Kỳ cười nói:
− Đánh thì có hơi chậm mà vị tất đã ăn chắc. Nhưng thơ thì hay và ý nghĩ cao đấy chứ, có khẩu khí.
Thông ngôn Lộc tiếp:
− Chính tôi cũng sốt ruột nước cờ ăn chắc của Giáo sư Lê. Nhưng tôi cũng thích thơ của ngài như ông Cử vậy. Ngài làm thơ nôm bằng tiếng nói thông thường của ta cả, nhưng tính tình cao thượng và ý nghĩ sâu xa. Ngài làm được cả thơ chữ nho, thơ chữ La-tinh, thơ Phú Lãng Sa khá đấy, vì ngài là nhà bác học.
Giáo sư Lê vội ngắt:
− Sao tự nhiên anh lại đâm ra nói nhiều thế. Để yên cho người ta nghĩ, không rối bét, thua bây giờ đây này.
Thông Lộc cũng chẳng vừa, nói chèn:
− Cậu mà thua là phúc cho người khác, khỏi phải ngồi mà xem, mà ngửi cậu “đủn ìa” ra quần. Lặng thà chịu thua đi, rồi mà ngâm thơ cho nhau nghe còn hơn.
Nhìn qua bao quát cả hai bên, Giáo sư Lê đủng đỉnh vừa đấm tốt biên, vừa nói đầy vẻ tự tin:
− Đối với moa, thì cờ và thơ đều là phụ cả, vừa đánh cờ vừa ngâm thơ cũng được chứ sao.
Nhưng mà moa không muốn làm trò cười cho thiên hạ!
Đào Trọng Kỳ vội nói lấy lòng:
− Tuy là phụ nhưng đều cao tay cả. Thưa hai quan lớn, thật là “kỳ phùng địch thủ”9 thơ gặp tri âm, xin các quan vui lòng vừa cờ, vừa thơ cho thêm phần hào hứng. Rồi sẽ có đàn để thưởng rượu mừng quan.
Thông Lộc nói xen vào:
− Chúng tôi đã được biết ngón đàn của ông Tú. Còn về phần quan Giáo thụ…?
Hoàng Văn Khải ngồi im từ nãy, thấy nói đến mình, vội đỡ:
− Thưa các quan tiểu đệ bất tài cũng xin hầu tiếp các quan, nhưng phận đàn em xin được hưởng thụ là chính. Mọi người đều cười vui vẻ. Ông Tú đã ở nhà trong ra mời cả bốn người vào phòng khách của ông Cử bên trong. Ông đon đả nói:
− Thưa các quan, xin các quan chuyển cả bàn cờ vào trong thư phòng ở trong ấy sửa soạn xong cả rồi, ta vào trong ấy cho ấm cúng, kín đáo.
Cuộc họp mặt được đưa vào nhà trong, diễn ra trong bầu không khí thân mật hơn. Sau mấy ván cờ đọ sức, thi tài, năm người cũng ngồi vào mâm, uống rượu thù tạc nhau rất là tương đắc. Giáo sư Lê có ngâm thêm hai bài thơ ngụ ý mình. Bài thơ thứ nhất là bài vịnh Con cóc, ngâm khi đang đánh cờ có bốn câu:
Ung dung chễm chệ ngồi chơi,
Gan vàng tiếng kể trong đời khiếp thay!
Muôn dân khổ hạn lâu ngày.
Mong cho thấy tiếng để rày cậy trông.
Bài thứ hai vịnh Cái nón, lão ngâm trong tiệc rượu:
Có người quân tử dựng nên,
Hình dung chĩn chện ngự trên đầu người,
Dân con cảm đức tày trời,
Cứu cơn nắng gắt mưa rơi giữa đồng.
Mọi người khen lời thơ chải chuốt, có khẩu khí cao thượng và giàu lòng thương dân. Cuộc vui kéo dài đến quá trưa. Chủ khách từ biệt nhau, chứa chan tình thân mật lưu luyến.
*
**
Non một tháng sau, sang đầu tháng hai, một tiệc rượu nữa được mở ra, không ở hiệu Lạc Phố, mà lại ở nhà khách của Bá hộ Kim, làng Cựu Lâu. Khách ăn chỉ có bốn người: thông Lộc, Giáo sư Lê, Đào Trọng Kỳ và Bá hộ Kim. Chủ nhà là chủ bữa tiệc. Nhưng sáng kiến bày ra cuộc họp mặt thân mật và kín đáo này lại do Giáo sư Lê đưa ra đầu tiên. Ngài giáo muốn gặp ông Bá và ông Cử để nói chuyện tâm sự riêng, không cần văn hoa gì cả. Bá Kim thấy người ta sốt sắng với mình như thế lại càng thêm khấp khởi mừng thầm và phen này có thể được lợi nhiều với bọn Tây, do đó càng hết lòng, hết sức thu xếp cho bữa tiệc thật là thịnh soạn, linh đình và thật là ấm cúng kín đáo. Khách ngồi ăn ngay ở trong nhà riêng của Bá Kim. Qua chuyện buôn bán chuyện Tây, chuyện Khách, chuyển sang chuyện thời thế…, rượu ngà ngà say, thông Lộc móc ra trong túi một tờ giấy lệnh kẻ ô đỏ gấp tư đưa cho Phủ Kỳ và nói:
– Mời hai ngài đọc hộ cái này.
Đào Trọng Kỳ giơ tay đỡ lấy, hơi run run, hỏi lại:
Thưa, cái gì vậy?
Hãy đọc đi đã!
–
− Phủ Kỳ mở to tờ giấy ra, nhìn qua một lượt những chữ viết chân phương trên những ô vuông, chỉ có khác với các tờ giấy công văn là toàn những chữ nôm cả. Lão bắt đầu lẩm bẩm đọc nhỏ rồi dần dần thành tiếng:
“… Dòng dõi chính thống,
Con cháu vua Lê,
Bấy lâu nay xót tôn miếu lìa tan,
Hành động thương con dân điêu đứng.
Nghĩ ta nay non đức kém tài, có đâu dám mở bài mối cả.
Sau vì đau tấc dạ, xót sinh linh, giục giã đêm ngày, nên phải ra tay đem xích tử10 đặt ngay chăn nệm. Quyết nổi một cơn nồng cháy, trừ thói kẻ gian, dẹp bốn bể sóng càn cho yên trước đã. Ta nay đắp dựng nền Hán xã, chớ có điều chống đỡ thiên uy… Các khanh hãy nhớ đức Lê Hoàng, mau nghĩ đến đắp xây quốc tộ11.
Dụ truyền các hạt, cùng biết tuyên hành.
Lê Hoàng Tôn. Đại thiên hành hóa. Lê Duy Bá.”
Đào Trọng Kỳ đọc lướt xong, có vẻ luống cuống sợ sệt, lóng ngóng, đặt tờ giấy xuống, chưa dám nói gì, có lẽ còn suy nghĩ. Thông Lộc hỏi ngay:
− Thế nào? Ông Cử sợ à?
Dạ!
− Lão chuyển đưa tờ giấy cho Bá Kim, ngẩng lên và hỏi Giáo sư Lê:
Bẩm đây là chỉ dụ của đức Lê Hoàng Tôn, mà có lẽ Giáo sư Lê là người đồng tộc. Giáo sư Lê vẫn ngồi im, thông Lộc đưa mắt nhìn Giáo sư Lê rồi nhấp nháy, nói với hai người:
Thì chính là đức Lê Hoàng Tôn đấy, trước mặt chúng ta đây chứ còn ai nữa?
− Phủ Kỳ và Bá Kim sững sờ, vội đứng dậy chắp tay toan sụp lậy. Giáo sư Lê cũng vội đứng xuống đất, xua tay nói:
− Xin cứ như thường, các ngài cứ ngồi yên, chúng tôi cũng như các ngài, anh em bốn bể một nhà cả. Hai người vẫn cứ đứng chắp tay. Thông Lộc cứ điềm nhiên ngồi yên ra vẻ quan sát mọi người và thủng thẳng nói:
− Mời các vị ngồi xuống, ta nói chuyện như cũ, như mọi khi…, như những người bạn chí thân, thì mới dễ nói hơn. Vả lại Giáo sư Lê là người đã chu du nhiều nước, theo lối bình đẳng của phương Tây, ngài không chấp nhận đâu.
Hắn quay nhìn Giáo sư và nói:
− Có phải thế không toa12 nhỉ?
Rồi hắn ngồi lại ngay ngắn nói tiếp, giọng nghiêm túc:
− Bây giờ ta nói thẳng vào mục đích. Tôi là người trung gian, tôi xin nói toạc móng heo để các vị rõ: Giáo sư Lê chính là Lê Hoàng Tôn, dòng chính của đức Cảnh Hưng, chính tên ngài là Lê Duy Bá người ta còn gọi là Cả Thanh hay Cả Đông. Các vị thường nghe tiếng đồn về hai ông Cả ấy, chính là Giáo sư đây vậy. Giáo sư học rộng tài cao, biết nhiều thứ tiếng ngoại quốc, cờ cao, thơ hay, đàn giỏi, như các vị đã biết, nhưng đấy chỉ là phụ thôi, như ngài thường nói là mưu khôi phục ngôi chính thống của nhà Lê để đem thái bình hạnh phúc cho muôn dân trăm họ…
Hắn nói một mạch dài, thấy hai người vẫn đứng chắp tay cúi đầu lắng nghe, liền ngừng lại, đứng lên dìu hai người ngồi xuống và vồn vã nói tiếp:
− Ngồi xuống đây! Ăn uống tự nhiên đi thì mới nói chuyện được. Không chúng tôi về bây giờ.
Các ông là chủ cơ mà.
Hai người liền ngồi lại, Đào Trọng Kỳ xun xoe nói:
− Thật quả hạ dân, người trần mắt thịt, không biết đến thánh nhân, nhưng cũng vẫn phục ngài là bậc độ lượng thương dân thương nước, hạ dân vẫn còn nhớ những câu thơ của ngài: “Muôn dân khổ hạn lâu ngày… dân con cảm đức tày giời…” biết ngay là khẩu khí phi thường…
Thông Lộc cười nói đế vào:
− Khẩu khí chẳng kém gì thơ vua Lê Thánh Tông…
− Dạ, bẩm vâng ạ, đúng là khẩu khí đáng vì thiên tử.
− … Thì làm quan có mả, thông Lộc tiếp, kẻ cả có dòng mà lị. Cùng dòng dõi với vua Lê Thái Tổ, làm gì mà chả có khí tượng Đế vương. Chẳng qua mấy lâu nay phải im hơi lặng tiếng giấu thân, nên phải nén đi đó thôi. Giờ thì thời cơ đã đến, đã đến lúc xuất đầu lộ diện, nên đối với hai ông đây là chỗ quen thân, đi lại đã lâu, giáo sư có lòng tin cậy, nên cũng muốn nhân dịp nói thật cùng nhau…
Bá Kim ngồi lặng nghe và từ nãy, bây giờ mới lễ phép lên tiếng:
− Dạ, thưa hai ngài, xin hai ngài đại xá cho, hạ dân chúng con chưa biết gọi thế nào cho đúng lễ nghi. Dạ, thưa các ngài thật âm đức cho nhà chúng con lớn lắm mới được các ngài hạ cố bảo ban cho như thế, chỉ sợ chúng con kém đức mỏng phận, không xứng đáng là tôi con của các ngài… lỡ sơ suất để lộ ra làm hỏng nghĩa lớn…
Lê Duy Bá ngồi ngay ngắn, hai tay thu vào bọc, rung rung một bên đùi, è một tiếng, lấy giọng và nói một cách từ tốn, đĩnh đạc và nghiêm nghị, với vẻ người trên rõ rệt:
− Các thầy cứ yên tâm, đừng ngại, việc đã đến lúc cần nói ra cho mọi người đều biết, thì cũng lộ ra cũng không sao. Cho nên cũng cần nói cho các thầy biết để một mặt các thầy có thể đe tài trí ra giúp vào đại sự, và mặt nữa, biết rõ hiện tình mà trấn tĩnh lòng người. Tôi đây bấy lâu dốc một lòng nghĩ đến tông miếu nhà và dân trăm họ nước Đại Việt, tôi chu du các nước, được nước Anh, nước Phú, nước Nhật và nhà Thanh bên Tàu hẹn giúp. Còn ở trong nước, tôi đã đi khắp mấy tỉnh Đàng trong, mấy trấn Đường ngoài, đến đâu tôi cũng thấy trăm họ khổ sở vì hà chính13 của họ Nguyễn và mong nhớ nước cũ vua Lê, muốn con cháu nhà Lê nối ngôi chính thống. Mà họ Nguyễn bị dân chán ghét; đến nay đất lục tỉnh Gia Định là nơi vốn dĩ của họ nay cũng không giữ nổi nữa là. Khí số đã thay đổi, mọi nơi đã hướng theo, đã đến lúc phải nêu cao cờ khởi nghĩa…
Lê Duy Bá nói một hơi khá lâu, thấy hai người chỉ chăm chú ngồi nghe, thông Lộc nghĩ rằng cần cho họ tin hẳn mới thong thả nói thêm:
− Thời cơ đã đến, vì thế họ Nguyễn càng ngày càng yếu, quan tham, lại nhũng, thần oán, dân hận. Còn đức ông họ Lê đây thì không những được các cường quốc giúp đỡ, mà ngay ở trong nước, ngài cũng được hào kiệt Bắc Hà nhớ đến vua cũ mà theo về như nước. Hơn nữa, đức ông lại được các cha cố hết lòng hướng nghĩa. Cố Phước, cố Hậu đều khuyên bảo con chiên bổn đạo đi theo. Đông đảo dân giáo cũng một lòng tin, biết hợp theo lời các đấng bề trên là một sức mạnh lớn tuyên truyền cho đức ông…
Bá hộ Kim lên tiếng hỏi:
− Lậy đức ông, lậy quan lớn, hạ dân chúng con ếch ngồi đáy giếng, không rõ được tình thế, nên nghĩ sao nói vậy, xin các ngài xá lỗi cho. Dám hỏi ông Kê và người Phú ở đây đối với việc nghĩa này, họ có thực bụng không? Hay họ cũng chỉ đứng ngoài nghe ngóng?
Thông Lộc cười, đáp lại ngay:
− Ông Bá nghĩ gần quá. Ông Kê-la-đích đối với đức ông đây coi là thượng khách, cung phụng đủ mọi thứ cần dùng. Lại tự bỏ tiền ra thuê in hàng vạn tờ dụ này từ mãi bên Hồng Công để phân phát đi các hạt, ân cần như thế, chứ còn gì nữa. Có điều còn vì thể diện ngoại giao nên họ còn phải kín đáo giữ ý chứ.
Bá Kim cũng cứ hỏi thêm:
− Đành rằng bề ngoài thì như thế thật. Nhưng hạ dân nghĩ thiển cận vẫn sợ như việc ông Đồ Phổ Nghĩa giúp một ông hoàng ở Thanh Hóa, rồi sau cũng bỏ đi. Và việc người Phú giúp ông Hồ Văn Vạn tôn phò một vị hoàng tôn nhà Lê đấy, thế mà chỉ ít lâu họ lại giúp các quan nhà Nguyễn dẹp tan đám giặc ấy, bắt cả Hồ Văn Vạn và mọi đầu mục giải vào kinh lăng xử tử.
Thông Lộc cãi:
− Sự đồng thế dị chứ14. Ông Kê-la-đích khác ông Đồ Phổ Nghĩa. Đấy ngay như ông Đội Diệu, các ngài biết đấy, bị các quan đòi bắt mãi, mà ông Kê ông ấy có giao đâu. Vả lại cái thế của người Phú lúc bấy giờ khác với bây giờ, mà tình trạng của triều đình Huế ngày nay lại ươn hèn và rối ren hơn trước nhiều. Cho nên mới nói là thời cơ đã đến. Và còn một chỗ vững vàng cho ta nữa là ông Kê dốc lòng che chở, có sao thì chỉ việc nằm lì trong trường Tây hay là tếch vô Sài Gòn…
Đào Trọng Kỳ cũng dựa vào ý của thông Lộc nói theo:
– Bẩm chính thế đấy ạ, việc của ông Đồ Phổ Nghĩa ngày trước chính tại ông Ngạc Nhi làm hỏng, ông Ngạc Nhi muốn dựa ngay vào bọn quan lại của Nam Triều, nên mới bỏ mưu kế của ông Đồ Phổ Nghĩa. Còn việc ông Hồ Văn Vạn lại xảy ra lúc người Phú đang thương thuyết với triều đình về buôn bán… Vả lại cũng chính là vì những người được tôn lên đều chưa phải là người xứng đáng, chưa có ai tin. Chứ bì thế nào được với đức ông đây tài cao học rộng, danh tiếng vang lừng, mà lại là chính hệ15.
Thông Lộc khen và nói tiếp:
− Đúng đấy! Cái thế của người Phú bây giờ là thế mạnh, người ta muốn mở rộng buôn bán thu lợi, mà các quan Nam cứ ngăn cản. Cho nên, Súy phủ Sài Gòn lại sắp đưa một đoàn binh thuyền ra đây, bắt phải mở sông Hồng cho thông thương. Nhân dịp này ông Kê muốn tuyên truyền rộng ra để đưa đức ông lên đây làm chủ miền Bắc Hà này. Có danh nghĩa là có dân tôn phù lên, còn sức mạnh chính sẽ do người Phú giúp đỡ cho, thì xoay đổi thời thế dễ như trở bàn tay.
Thấy Bá Kim và Phủ Kỳ ngồi im, ra chiều đã xiêu xiêu, Lê Duy Bá giảng giải thêm cho họ ngả theo hẳn:
− Thầy Bá có ý nghi ngại người không thực tâm giúp, rồi lại hóa đem con bỏ chợ. Nghĩ như thế cũng có lý, nhưng việc bây giờ khác ngày trước. Bây giờ người Phú đã đóng ở đây rồi, chỉ cần mở rộng buôn bán ra toàn cõi Bắc kỳ này. Thế mà các quan của nhà Nguyễn lại cố chấp và bo bo ngăn cản họ. Cho nên họ lại phải đem binh quyền ra lần nữa. Lần này thì họ vững và mạnh hơn trước nhiều. Nếu bọn nhà Nguyễn chống lại, họ sẽ đánh chiếm lấy và lập riêng ra một nước giao trả cho nhà Lê cũ. Lúc đó chúng ta đã có đủ công miếu, xã tắc để cũng buôn bán hòa hảo với người Phú. Như thế là dân được yên, nước được lợi. Nếu nhà Nguyễn chịu nhượng người Phú, mở cửa thông thương, giao cả mọi nơi trọng yếu cho người Phú, thì chúng ta đây, có dân theo, chúng ta sẽ có được những quyền vị đích đáng để giao thiệp với người Phú. Đằng nào thì người Phú cũng không bỏ rơi chúng ta, vì chúng ta nắm được dân, làm lợi cho người Phú. Ở các nơi như Thanh Hóa, Ninh Bình, Quảng Yên, Hải Dương, tôi đều có hộ bạ cả rồi. Do đó, nhân có thầy thông đây quen biết các thầy, đã đi lại chơi thân, tôi cũng muốn nói rõ để các thầy biết, vì sự thanh khí và cũng vì lợi chung cho cả dân cả nước, mà cùng mưu nghĩa lớn…
Thông Lộc cũng nói thêm:
− Chủ trương của người Phú mở rộng buôn bán đã có từ lâu, nhưng tôi chưa dám nói rõ với các ông, vì hai lẽ: nói sợ các ông chờ quá lâu để sốt ruột ngã lòng; vả còn phải thử xem tâm tình các ông thế nào đã chứ. Nay đã biết các ông đều là những người thức thời đạt lý, biết quyền biến nên mới ngỏ cũng nhau; hơn nữa, việc kíp rồi, mai mốt binh thuyền của người Phú ra đây, thế như chẻ tre rồi mới bảo các ông thì hơi muộn và không cần nữa. Các ông có tin hay không, cứ hỏi ông Phạm Quang Diệu sẽ rõ. Các nơi người ta đã theo về như đi chợ cả.
Phủ Kỳ thành kính nói:
− Bẩm tâu đức ông, nhờ âm công, âm đức, hạ dân chúng con được đức ông đoái thương tới, vạch rõ cho biết đường họa phúc, chúng con xin cắn cỏ ngậm vành. Dám mong đức ông truyền bảo cho lệnh phải làm gì từ lúc này.
Lê Duy Bá nghiêm nghị nói:
− Các thầy đã biết ngóng theo cờ nghĩa, thế là tốt. Đáng lẽ phải đợi đến một cuộc họp lớn, tế trời đất, uống máu ăn thề, rồi mới ban bố mệnh lệnh. Song nghĩ tình quyến cố16 ta cũng tòng quyền tiếp nhận các thầy vào hội nghĩa, và ban phép cho các thầy tuyển mộ thêm người trung nghĩa và dò xét mọi tình hình phòng bị của vua quan nhà Nguyễn ở địa hạt mình. Nếu làm gì có hại cho hội nghĩa, thì gươm thiêng còn đó, phép nước quyết không tha…
Thông Lộc cười vui vẻ nói:
− Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Rốt cục lại chỉ là cổ động lấy thêm người hướng theo nghĩa, cũng như chúng tôi làm hôm nay với các ông ấy mà. Có người rồi có việc. Các ông cần cổ động cho các hào kiệt trong vùng biết rõ tình thế và chí hướng của đức ông đây.
− Bữa tiệc kết thúc giữa bầu không khí vui vẻ, nhất trí, trong đó mọi người đều như là hiểu biết nhau, đã căn dặn nhau những việc cụ thể trước khi chia tay. Ăn tráng miệng và uống nước xong, Lê Duy Bá và thông Lộc đứng lên cáo từ ra về. Đào Trọng Kỳ và Bá hộ Kim đứng lên kính cẩn theo sau tiễn chân ra đến cổng. Khách vừa ra đến giữa sân, cô Xuyến, con gái Bá Kim ở ngoài về không biết có khách, chạy rảo cẳng vào sân, vội đứng sững lại chào hai ông khách, rồi nhẹ nhàng nhanh nhẹn rẽ tạt xuống nhà ngang đối diện. Thấy cô gái ăn mặc nâu sồng, áo đồng lầm quần nái thâm, nhưng duyên dáng và lộng lẫy, Lê Duy Bá nhìn theo mãi, cho đến khi ra đến cổng, còn ngoảnh lại trông vào phía nhà ngang và cười gật đầu chào Bá Kim. Thông Lộc đi nén lui lại sau, đứng bên Bá Kim ghé miệng khẽ nói vào tai:
− Đức ông tuy đã ngoại tứ tuần, nhưng nội trợ kém người chưa có ngôi chính thất, ngài khó tính, nhưng vốn nghe tiếng lệnh ái, nay được thấy bóng hồng, ngài ngẩn ngơ nhìn mãi. Nay mai bốn bể một nhà, cung phi hoàng hậu hẳn là có nơi.
Bá Kim vội nói:
− Dạ, chúng tôi bạc đức, và tiện nữ kém hèn, không dám ngóng trông.
Đào Trọng Kỳ cũng nói xen vào:
Có phúc thì có phận. Người ta có số cả. Nếu quả được như vậy chúng tôi xin có lời mừng, quan thông ngôn nhỉ!
− Đúng vậy! Thôi xin chào hai ông nhé! Cứ thế mà làm, rồi sẽ đủ cả. Có cả vinh thê ấm tử, và con gái hiển đạt trông thấy.
Thông Lộc vừa chào vừa nói dài dòng. Trong khi Lê Duy Bá lặng lẽ gật đầu chào lại Đào Trọng Kỳ và Bá Kim lần nữa. Hai vị khách đi khỏi. Bá Kim và Phủ Kỳ trở vào, đi rẽ qua nhà ngang, thấy con gái ở trong bếp đi ra, Bá Kim gắt hỏi ngay:
− Con nhà chết tiệt! Con gái nhớn như cái bồ mà vô ý vô tứ ở đâu về mà chạy xô cả vào khách…
Cô Xuyến liến thoắng cãi:
− Con tưởng các ông ấy về rồi đấy chứ. Con vội đem cái giấy sức về cho thầy.
Giấy sức gì? Đâu? Bá Kim hỏi:
Con để ở tráp trên nhà ấy, giấy quan Thượng sức cho tất cả hàng khoa, hàng hào.
Bá Kim vội mời Đào Trọng Kỳ trở lên nhà khách:
− Mời quan bác vào chơi đã, để ta bàn cho kỹ.
Đào Trọng Kỳ lặng lẽ bước vào nhà khách, Bá Kim bước ngoặt vào trong buồng bên mở tráp lấy ra tờ trát sức, đọc lướt nhanh đến chữ “sức cho tất cả các chức sắc, văn từ Tú tài, võ từ Cai đội, hào từ Bá hộ trở lên hiện đang nghỉ ngơi vô sự ở nhà chưa có chức phận gì, phải củ tập17 dân đinh nơi mình, đợi lệnh ứng phó với sự tráo trở của bọn Phú Lãng Sa. Dự phòng đầy đủ, mà không để lộ hình tích…” Lão vội chạy ra nhà khách ném tờ giấy sức lên án thư trước mặt Đào Trọng Kỳ, lắc đầu nói:
− Đây này bọn Tây sắp ra thật rồi, các quan ta đã đề phòng chu đáo, bắt mọi người…
Đào Trọng Kỳ cầm lấy tờ sức đủng đỉnh nói:
Lại cái lối đánh bằng giấy sức, nào ai lạ gì?
Bá Kim ngồi vào trường kỷ đáp:
Bác hãy đọc cho rõ đã! Quan Thượng Hoàng này khác các quan Thượng trước nhiều.
Đào Trọng Kỳ vẫn không đọc giấy sức, hỏi lại:
− Khác những gì? Bác nói lại cho tôi nghe nào? Xem có đúng.
− Này nhé! Bá Kim nói với vẻ tự tin quả quyết. Cụ lớn ngài rất cương trực, thẳng thắn, không sợ quan trên, không chèn ép người dưới. Tôi biết tính ngài từ chín năm trước khi ngài còn làm Án sát tỉnh Bắc. Ba năm nay, ngài về làm Tổng đốc tỉnh này thì ai ai cũng rõ ngài rất mực trung trực là một. Hai nữa ngài biết trọng vọng các vị khoa bảng, và trấn áp bọn cường hào…
Phủ Kỳ cười ngắt lời:
− Đó lại là điều bất lợi kia chứ. Mười năm trước, khi bọn Đồ Phổ Nghĩa đến đây, cánh nhà nho muốn đánh, nhưng bấy giờ Tổng đốc Bùi Thức Kiên lại khinh miệt bọn họ, ngăn cản họ, rồi bắt bớ, không cho họ đánh, nên tức nước vỡ bờ, họ vùng ra. Còn bây giờ quan Thượng quý nhà nho, nhà nho tin quan Thượng, nấn ná nước đến chân mới nhảy thì có là nhảy xuống sông…
Bá Kim cũng không chịu ngắt:
− Thì bác hãy cứ đọc tờ sức đã nào. Người ta dốc sức cả hàng khoa hàng hào, vạch ra công việc cho mọi người cùng làm, cùng sẵn sàng đối phó kia mà, có như trước kia đâu.
Đào Trọng Kỳ lật đi lật lại tờ giấy, vẫn cười nói:
− Tôi chỉ nhìn qua là biết quan trên sức bắt các thân hào trong huyện Thọ này làm gì rồi, mà lại liệt tên rõ ràng đây nhé. Này Cử nhân Võ Thạch, Cử nhân Kim Cổ, Tú tài Yên Thái, Tú tài Tự Tháp, Tú tài Nam Phố, Cai tổng Bá hộ Cựu Lâu, Bát phẩm văn giai Phất Lộc… một sô một sốc.
Bác cho như thế là khác kia trước à?
Bá Kim đáp rắn rỏi:
− Phải! Người ta điều động và khuyến khích được tất cả mọi người danh vọng đứng ra ngăn cản kẻ ngoài lấn cướp.
− Bọn Phú đã ra đến nơi rồi, Phủ Kỳ nói. Tôi thử hỏi bác, cái giấy sức kia đưa xuống cho bác, bác đã đề phòng kịp chưa? Vả lại các ông quan chỉ ngồi ở trên mà đưa giấy xuống giục, rồi chỉ tay năm ngón mặc kệ ai làm thế nào thì làm, thì thử hỏi, ngộ nhỡ các ông quan thua rồi, hay đi theo Tây cả thì bác và các thân hào trong huyện có đánh Tây nữa không? Biết theo ai mà đánh?
Hay lại cũng vẫn muốn làm gì thì làm?
− Thế chẳng nhẽ lại không sức gì cả, cứ im đi như mười năm về trước, khi bác làm Tri huyện Thọ ấy à?
− Bác nên biết rằng sức hay không mà các quan cứ ở trên tỉnh, trên huyện, không biết gì đến dân, thì cũng như không cả mà thôi. Các quan phải lăn lộn với dân, bày mưu kế cho dân thì dân mới biết lối mà theo chứ. Hiện nay có thế không? Tây nó sắp ra đến nơi rồi. Mà các quan lại có vẻ lui vào cố thủ ở trong thành, đào thêm hào, xây thêm tường vít lấy cổng, không một vị nào ra ngoài cả. Thế ngộ Tây, nó đánh mất thành rồi thì sao? Lúc bấy giờ dân theo ai mà đánh giặc?
Không thấy Bá Kim nói gì, Phủ Kỳ cắt nghĩa thêm:
− Huống chi ông Lãnh sự Kê-la-đích khôn ngoan quỷ quyệt hơn lão Đồ Phổ Nghĩa nhiều, ông ta nhũn như con chi chi, giao thiệp rất khéo với quan và dân ở đây, không xảy ra điều tiếng gì, cánh nhà nho vì thế mà càng tin quan Thượng, không thấy xôn xao như trước. Rồi đùng một cái, bọn Phú khác ở trong kia ra, nó mới làm già bắt ép cả quan lẫn dân phải chiều theo ý nó, thì thật trở tay không kịp nữa.
− Thế bác bảo tôi đừng làm theo tờ sức này để nó cột cổ tôi lại buộc cho tôi tội phản quốc ấy à? Hay là bác muốn bảo tôi cuốn gói theo ngay Giáo sư Lê.
Phủ Kỳ lại càng cười lớn nói:
− Ông này phát khùng lên rồi! Tuấn kiệt phải thức thời, tự mình nhìn lấy chứ phải nghe ai!
Tôi nói như thế để bác thấy rằng thế của người Phú bây giờ vững và lợi hơn năm Dậu trước,còn thế của dân ta thì lại rời rạc hơn, quan không dám tin ở dân, mà cánh nhà nho lại tin ở quan, nên không sôi nổi như trước…
Bá Kim ngồi sát lại gần, hỏi khẽ, có vẻ chân thành:
− Vậy ý bác thế nào? Và bác bảo tôi nên làm như thế nào lúc này?
− Tất nhiên không ai xui dại bác mà bác nghe. Phủ Kỳ nói thong thả và nghiêm túc. Bác không muốn làm lớn, một lúc lên ngay Tổng đốc Thượng thư mà bác cũng không muốn thiệt đến thân. Vậy thì cứ tình thế lúc này bọn Phú thế nào nó cũng ra ngoài này, ít nhất nó cũng chiếm lấy tỉnh Hà Nội với con sông Hồng Hà, rồi sau này nó chiếm cả Bắc kỳ để mở rộng buôn bán. Mưu mô của bọn Phú như kẻ cao cờ, nó cứ đi lấn từng bước làm cho các quan ta không tài nào gỡ được. Đã thế quan trên lại không tin mình, thì ta chỉ ư hử đợi thời, mà đợi cũng không lâu đâu, chỉ là kể ngày kể tháng thôi. Trong khi ấy thì ta nên nghĩ cách ngầm giúp Duy Bá…
Bá Kim đột nhiên hỏi lại:
− Bác có tin người Phú sẽ thực bụng giúp Lê Duy Bá không? Và Lê Duy Bá sau này có thể khôi phục được ngôi nhà Lê thật không?
− Có! Đào Trọng Kỳ trả lời thong thả rành rọt. Vì tôi cho rằng bọn Phú nhất định phải chiếm lấy Hà Nội, mà bọn quan tỉnh, nhất là quan Thượng, không khi nào chịu giao nhượng, tất nhiên bọn Phú phải đánh. Mà nó đã đánh là nó lấy được. Lấy được rồi, bọn nó muốn yên ổn mà buô bán thu lợi nhiều, tốt, nó sẽ giao quyền cho đức ông Lê Duy Bá lấy danh nghĩa là lập lại triều nhà Lê mà làm vua đất Bắc này. Như thế là ta đã có tay trong giao thiệp được với đức ông nhà Lê ngay từ đầu.
Bá Kim lắc đầu nói:
− Tôi thì tôi không tin như thế. Tôi cũng dự đoán biết nhất định bọn Phú sẽ chiếm giữ Hà Nội và cả toàn cõi Bắc kỳ cũng như sáu tỉnh Nam kỳ vậy. Nhưng tôi không tin bọn nó sẽ giúp cho Lê Duy Bá lên làm vua xứ này. Trước tiên công đức nhà Lê không còn đủ để chiêu tập hào kiệt bốn phương theo về. Lê Duy Tự, Lê Duy Ôn, Lê Duy Uân, trong mấy năm trước đây đã lần lượt nổi lên, lại lần lượt bị giết tất. Thế là khí số của nhà Lê đã hết rồi, quỷ thần không vệ, trăm họ ít theo. Huống chi bọn Phú đến đây cốt mưu lợi cho chúng, chúng cứ lấn dần từng bước chắc chắn, vua quan bản triều cứ nhượng dần, hoặc có ông quan cương trực sắc sói, thì nó tìm cách triệt đi, hoặc là dùng quân lính mà đánh chiếm lấy, rồi sau lại đặt những kẻ nào theo chúng nó lên nắm quyền. Thế thì tội gì nó lại lập ra một nước nữa cho rắc rối.
Đào Trọng Kỳ sừng sộ hỏi lại:
− Thế ông bảo làm sao mà nó lại nuôi và trọng vọng Lê Duy Bá như thế? Nó nuôi cho ăn hại à?
− Ấy, đi đồng đất nước người xa lạ − Bá Kim nói –ꢀnó phải phòng xa thế, đề phòng mọi mặt, để ngộ nhỡ lúc cùng ra đi phải dùng đến thì có ngay người lập ngay lên làm vua, để có danh nghĩa mà giao thiệp. Hơn nữa nuôi Lê Duy Bá không khi nào thiệt cả. Chỉ dùng để dò xét tình hình rồi trình bày tỏ thẳng ngay với họ thông qua thông ngôn phiên dịch cũng lợi lắm rồi.
− Thế thì như bác nghĩ, không nên giúp Lê Duy Bá à?
− Không nên! Bá Kim nói một cách dứt khoát, có nể thông Lộc thì cứ ư hử cho qua lời thôi. Chứ làm đĩ chín phương cũng nên để một phương lấy chồng chứ. Tôn phù Lê Duy Bá, lập ra một nước của vua Lê để đánh nhau với vua quan nhà Nguyễn, thì rồi tôi và bác có được lợi gì? Hay là hai bên đánh nhau, dân chúng chết, chúng ta ở gần sẽ bị cháy thành vạ lây, mà chung quy chỉ lợi cho người Phú thôi. Huống chi trong lúc đang có vẻ cấp bách này, mà mình cứ thập thò không khéo là cụ thượng này cụ có thể trừ khử khỏi ngay tức khắc cho mà xem, cho nên, lúc này, đệ cho ngồi yên là thượng sách.
− Thế bác định lờ người ta thật à? Bấy lâu gắn bó vừa có vẻ thề thốt nặng lời mà lờ ngay được?
Bá Kim thủng thẳng nói:
− Lờ được thì cứ lờ. Này nhé, bọn họ vừa nói binh thuyền Phú sắp ra, mà các quan thì sức xuống đề phòng như thế, rõ ràng việc đã đến nơi rồi! Thì ta cứ việc ngồi mà đợi, đâm bổ vào làm gì, vừa khổ cho mình và làm khó khắn thêm cho việc nước. Còn dại nào hơn?
Đào Trọng Kỳ ngồi im lặng suy nghĩ. Bá Kim với cái điếu đóng ở trên yên thư vít xuống để vào môi hút thử kêu sòng sọc. Chợt ở ngoài sân có tiếng người láo quáo. Lão buông xe điếu trông ra. Tú tài Nam Phố Lương Huy Cẩn đã bước vào nhà. Lão vội đứng lên chắp tay chào hỏi:
− Thầy Tú đã tiếp được tờ sức này chưa?
Ông Tú ngồi xuống trường kỷ, mắt trông theo tờ giấy để trên bàn, nói ngay:
− Nhận được rồi! Tôi đến tìm bác Cử để bàn cách luân hành cho phải phép.
Hết Chương I….(còn tiếp).
Mời Quý độc giả tìm đọc chương II…!
Để lại một phản hồi